Chỉ trích Kế_hoạch_Marshall

Những chỉ trích ban đầu

Những lời chỉ trích ban đầu đến từ phía một số nhà kinh tế theo chủ nghĩa tự do. Wilhelm Röpke, người có ảnh hưởng lớn đến Bộ trưởng Kinh tế và Kỹ thuật Đức Ludwig Erhard trong kế hoạch phục hưng kinh tế của ông này, tin rằng sự phục hồi kinh tế nằm trên việc hủy bỏ chế độ kinh tế chỉ huy tập trung, tái lập kinh tế thị trường tự do ở châu Âu, đặc biệt là tại các quốc gia trước đó tồn tại chủ nghĩa phát xít và nền kinh tế lũng đoạn bởi các tập đoàn đại tư bản. Röpke chỉ trích Kế hoạch Marshall là đã ngăn sự chuyển đổi sang thị trường tự do bằng cách trợ giúp hệ thống kinh tế yếu kém đương thời. Erhard đưa lý thuyết của Röpke vào thực hiện, và sau này công nhận những thành công rực rỡ của nền kinh tế Tây Đức là nhờ vào ảnh hưởng của Röpke.[47] Henry Hazlitt thì chỉ trích Kế hoạch Marshall trong cuốn sách xuất bản năm 1947 của ông: Will Dollars Save the World?, lập luận rằng sự hồi phục kinh tế phải đến từ việc dành dụm, tích lũy của cải và công ty tư nhân, chứ không phải thông qua việc hỗ trợ một khoản tiền mặt khổng lồ. Ludwig von Mises cũng chỉ trích Kế hoạch Marshall năm 1951, vì tin rằng "Sự trợ cấp của Mỹ khiến cho các chính phủ châu Âu có thể che giấu phần nào các ảnh hưởng tai hại của các chính sách mang tính xã hội mà họ thực hiện." Ông cũng chỉ trích viện trợ nước ngoài nói chung, cho rằng nó tạo ra kẻ thù ý thức hệ, thay vì bạn hàng kinh tế, vì nó bóp nghẹt nền kinh tế tự do.[48]

Những chỉ trích hiện đại

Việc chỉ trích Kế hoạch Marshall dễ nhận thấy trong số các học giả theo thuyết xét lại, như Walter LaFeber, trong những năm 1960 và 1970. Họ lý luận là chương trình này là sản phẩm của nền kinh tế đế quốc chủ nghĩa của Mỹ, và nó nhằm mục đích kiểm soát Tây Âu, cũng giống như Liên Xô kiểm soát Đông Âu. Trong bản đánh giá nền kinh tế Tây Đức từ năm 1945 cho tới năm 1951, nhà phân tích Đức Werner Abelshauser kết luận là "viện trợ nước ngoài không đóng vai trò quyết định trong việc bắt đầu quá trình phục hồi kinh tế, cũng như duy trì quá trình đó." Sự phục hồi kinh tế của Pháp, Ý và Bỉ, như Cowen nhận thấy, đã diễn ra từ trước khi dòng viện trợ của Mỹ đổ vào. Bỉ, quốc gia sớm nhất và cũng là quốc gia mạnh mẽ nhất áp dụng chính sách kinh tế thị trường tự do sau khi được giải phóng năm 1944, là quốc gia có sự phục hồi kinh tế nhanh chóng nhất, và tránh được nạn thiếu nhà và thiếu lương thực trầm trọng xảy ra tại tất cả các nước khác khi đó tại châu Âu.[49]

Nguyên Chủ tịch Hội đồng Dự trữ Liên bang Mỹ Alan Greenspan cho rằng Thủ tướng Đức Ludwig Erhard có công lớn nhất trong sự phục hồi kinh tế châu Âu. Greenspan viết trong hồi ký của mình The Age of Turbulence (Thời đại rối ren), rằng chính sách kinh tế của Erhard là khía cạnh quan trọng nhất của sự phục hồi kinh tế hậu chiến châu Âu, có giá trị hơn nhiều so với đóng góp của Kế hoạch Marshall. Ông tuyên bố rằng việc Erhard giảm bớt các quy chế đã cho phép sự thần kỳ của nền kinh tế Đức diễn ra, và chính sách đó cũng góp phần khiến nhiều quốc gia Âu châu khác hồi phục. Sự phục hồi của Nhật Bản cũng được dùng như một phản ví dụ, vì họ tự lực tăng trưởng mãnh liệt mà không có bất kỳ sự trợ giúp nào. Sự phục hồi của họ được coi là do các biện pháp kích thích kinh tế truyền thống, như tăng cường đầu tư, hỗ trợ bởi tỷ lệ tiết kiệm cao, và thuế thấp. Nhật có một nguồn vốn lớn chảy vào trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên, nhưng đó là nguồn vốn dưới dạng đầu tư, chứ không phải là để trợ giá, và nguồn vốn đó còn tỏ ra hữu ích hơn rất nhiều.

Những người chỉ trích kế hoạch Marshall cũng tìm cách chỉ ra rằng kế hoạch này để lại di sản là sự bắt đầu của những chương trình viện trợ nước ngoài tai hại. Kể từ những năm 1990, những nhà kinh tế học đã bắt đầu phản bác lại ý tưởng về viện trợ nước ngoài. Ví dụ như Alberto Alesina và Beatrice Weder, tổng kết lại tư liệu kinh tế về viện trợ nước ngoài và sự tham nhũng, và thấy rằng viện trợ phần lớn đã bị sử dụng lãng phí, cho lợi ích bản thân của chính phủ và các quan chức chính phủ, dẫn đến gia tăng nạn tham nhũng.[50] Chính sách khuyến khích các chính phủ thối nát này khi đó được gán cho những động lực ban đầu của Kế hoạch Marshall.[51]

Một số chỉ trích cho rằng kế hoạch Marshall thực tế là một bản giao kèo, theo đó Mỹ sẽ giúp đỡ tài chính và kinh tế cho các nước châu Âu để đổi lại sự nhượng bộ chính trị đối với Mỹ của các quốc gia trên châu lục này. Theo đó, Mỹ có quyền tác động vào các cuộc bầu cử quốc hội và thành lập chính phủ các nước châu Âu, đồng thời vô hiệu hóa vai trò của Tổng thống Pháp vào thời điểm đó là Tướng Charles de Gaulle, một người đi theo chủ nghĩa dân tộc độc lập, và đưa các chính khách thân Mỹ lên lắm quyền ở các nước châu Âu. Mục tiêu chủ yếu của Đề án này là từng bước khiến các nước châu Âu từ bỏ chủ quyền quốc gia, và thay vào đó là một trung tâm điều hành châu Âu với sự kiểm soát của Mỹ[52]

Noam Chomsky viết rằng số tiền mà người Mỹ viện trợ cho Pháp và Hà Lan cũng bằng với số kinh phí mà những quốc gia này sử dụng để chi cho lực lượng quân sự của họ ở Đông Nam Á. Kế hoạch Marshall nguyên là để "thiết lập cơ sở cho một số lớn đầu tư tư nhân của Mỹ tại châu Âu, thiết lập nền móng cho các công ty xuyên quốc gia lớn."[53] Những chỉ trích về Kế hoạch Marshall khác đến từ báo cáo rằng Hà Lan sử dụng một phần lớn số viện trợ để tái chiếm Indonesia trong Chiến tranh giành độc lập Indonesia.[54]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Kế_hoạch_Marshall http://www.cnn.com/SPECIALS/cold.war/episodes/03/d... http://www.commentarymagazine.com/Summaries/V89I1P... http://news.enquirer.com/apps/pbcs.dll/article?AID... http://books.google.com/books?id=WDgBBzWQ2DAC&pg=P... http://www.nationsencyclopedia.com/Europe/Finland-... http://www.time.com/time/archive/preview/0,10987,8... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,8... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,8... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,8... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,9...